Thứ Tư, 18 tháng 11, 2009

widding party

Đam cưới trên dường quê

Đặc sản Thanh Hóa

GỎI CÁ - ĐẶC SẢN HẤP DẪN CỦA SẦM SƠN



Ai đó đã đến với cái Sầm Sơn xin đừng bỏ qua đặc sản Gỏi cá, món ăn nổi tiếng của vùng biển Xứ Thanh. .

Cá dùng để làm Gỏi thường là loại cá ít xương, nặng chừng 3-5 ký.Cá được rửa sạch, dùng dao sắc lọc riêng phần thịt ). Thịt cá được thái thành từng lát mỏng và to bản rồi cho vào bát tô to, cứ 1 kg thịt cá thì vắt vào đấy 5 - 7 quả chanh, trộn đều cho tới khi thịt cá từ màu hồng nhạt chuyển sang màu trắng ngà thì lấy ra và dùng tay vắt kiệt nước rồi để sang một bát sạch khác.

Thính để làm gỏi được làm bằng gạo hoặc ngô rang vàng rồi tán nhỏ thành bột, trộn thính với thịt cá đã khô nước sao cho bề mặt của từng miếng thịt đều đã được thính bao phủ, bày lên đĩa. Tiếp đến là công đoạn làm nước chấm, với nguyên liệu chủ yếu là da và gan cá, thịt ba chỉ, trứng vịt và các gia vị như hành tỏi khô, mẻ, mắm muối, mì chính, đường, hột tiêu (ớt) ... Da và gan cá được băm nhỏ cùng với thịt ba chỉ rồi ướp với mẻ và các gia vị nói trên cho mỡ lợn hoặc dầu ăn vào xoong đun sôi để phi thơm hành tỏi, cho hỗn hợp trên vào sào qua rồi cho thêm vào một ít nước, đun sôi nhỏ lửa khoảng 15 - 20 phút. Trứng vịt đập vào bát, đánh tan cho vào nồi khuấy đều, nêm thêm muối và bột ngọt cho vừa ăn là được.

Rau sống để ăn gỏi cá bao gồm các loại rau thơm thông thường như húng, ngò, răm … và nhất thiết phải được bổ sung thêm các loại lá như đinh lăng, lá sung, mơ tam thể … Bày tất cả lên nâm, đĩa cá gỏi màu trắng ngà lấm tấm sắc vàng của thính, đĩa rau sống tổng hợp màu xanh lục, bát nước chấm thơm ngào ngạt và đặc sánh, thêm đĩa gia vị gồm ớt, khế, chuối xanh thái thành lát mỏng, vài chiếc bánh đa cùng một chén rượu nữa là bữa gỏi cá đã được chuẩn bị một cách hoàn toàn.

Cách thưởng thức món đặc sản này cũng hết sức dân dã và đặc biệt, Thực khách dùng thìa san một ít nước chấm vào bát của mình, lấy rau thơm làm bao gói, cuộn một miếng gỏi cá vào giữa, chấm ngập vào nước chấm rồi đưa lên miệng nhai … và thực khách sẽ cảm nhận được vị ngọt thơm của cá gỏi, mằn mặn, cay cay, beo béo của nước chấm hoà quyện với mùi vị của các loại rau thơm, thật là một cảm giác đặc biệt khó nói hết thành lời. Một chén rượu nhỏ để đưa cay, trong phút lâng lâng chắc thực khách sẽ tự mỉm cười và cảm ơn cuộc đời lại có một món ăn lạ lùng và kỳ thú đến như vậy.



NEM CHUA - ĐẶC SẢN HẠC THÀNH




Quả nem chỉ to bằng chiếc chén pha trà, gói bằng lá chuối tươi, lạt giang trắng buộc quanh chữ thập 6 mặt trông nho nhỏ, khéo khéo, trăm quả như một mà làm say lòng du khách.

“Bạn đến chơi nhà ta với ta

Có chai rượu đậu bóc nem ra …”

Làm nem là một nghề độc đáo, không khó nhưng phải có những bí quyết nhất định. Pha chế là khâu quan trọng, thứ gì làm trước, thứ gì làm sau, ngào trộn như thế nào…và khâu vệ sinh cũng như kỹ thuật gói nem cũng rất quan trọng. Nguyên liệu chủ yếu để làm nem bao gồm thịt nạc xay nhuyễn; Bì lợn luộc chín, cạo thật sạch, lạng mỏng bỏ vào máy cán thành sợi, ngắn chừng 3cm. Thính là gạo tẻ rang vàng, xay nhỏ mịn. Gia giảm còn có men, tiêu bắc, muối tinh và bột ngọt vừa đủ.

Đôi bàn tay xinh xinh thoăn thoắt gói nem, đặt viên nem đã vo sẵn vào lá chuối, cuộn,bẻ góc, quả nem mới hình thành đã vuông vức, cầm lá chuối xé sẵn khoanh chặt, ngoài cũng lấy lá mặt gói chặt, miệng ngậm đầu lạt xoay quanh buộc chặt, nhoáng đã xong quả nem rồi sâu thành chục một, sau 1-2 ngày là ăn được. Khi ăn, Nem bóc ra chắc, màu hồng, không dính lá, có vị hơi chua là nem ngon.

Mùa nào ăn nem cũng ngon, nhưng thú vị nhất là cuối thu, sang đông và mùa xuân. Ngày Tết có nem để đón xuân, chén rượu nhắm với nem Hạc Thành thì thật là thú vị. Ai đi đâu, về đâu qua TP Thanh Hoá đều mua nem về làm quà, và cùng với bước chân của du khách, quả nem nho nhỏ đã trở thành tình người Thanh hoá với bạn bè muôn phương.





BÁNH RĂNG BỪA



Những ngày Tết nguyên đán, Tết Đoan ngọ, rằm tháng Bảy, các lễ tục, ngày giỗ … trong nhà mỗi gia đình ở làng quê Thanh Hoá không thể thiếu bánh răng bừa, hay còn gọi là bánh lá. Bên mâm cỗ đầy nhiều thức ăn ngon, có thêm đĩa bánh răng bừa chưa bóc lá, bốc khói nóng sốt, dậy mùi thơm của hành mỡ. Và sau khi cúng xong, hạ cỗ xuống ăn, vừa ăn vừa bóc lá, thật không gì thú vị hơn.

Nguyên vật liệu của bánh răng bừa không có gì đặc biệt. Gạo tẻ xay thành bột, thường là xay cả nước, nếu bột khô thì phải pha nước vừa đủ, đặt lên bếp nao, tức là đảo đũa liên tục sao cho không bị vón cục, không lỏi, không quá chín. Đến khi bột đặc sền sệt thì bắc ra. Lá gói bánh thường là lá dong hoặc lá chuối tươi đã được hơ lửa cho khỏi rách. Nhân bánh là nhân hành, thịt băm, cũng có khi thêm ít lát cùi dừa. Nếu là bánh lễ chay hoặc đi lễ chùa thì nhân làm bằng lạc. Bánh gói nhỏ bằng ngón tay trỏ, nhỏ như răng bừa. Sau đó đem đồ hoặc luộc. Loại bánh răng bừa có kỹ thuật cao là loại bánh có bột nhỏ, mịn, thơm, ăn dẻo và ngon. Ngày Tết hoặc ngày lễ, các gia đình còn ngầm thi nhau làm bánh răng bừa với tất cả những ngón nghề, những kinh nghiệm và cũng là dịp trổ tài của các bà, các chị trong công việc nội trợ, gia chánh.



ẨM THỰC CANH ĐẮNG



Canh đắng là món ăn khá hấp dẫn của đồng bào các dân tộc miền cao. Mới nghe từ 'đắng' xin bạn đừng vội lắc đầu từ chối. Canh đắng nấu với lòng hoặc thịt bò, dê, lợn, gà, chim, cá, … đều được. Không kén chọn thực phẩm lắm. Nấu với thứ gì cũng đều phải làm sạch sẽ, rửa để ráo nước. Băm nhỏ, dao mài thật sắc để tránh mùn thớt. Dùng lá chân chim hay còn gọi là ngũ gia bì khô hoặc tươi xắt thật mỏng. Riềng, sả đem giã kỹ cho thật nát trộn với mẻ, mì chính, mắm tôm, ớt vừa ăn theo khẩu vị. Các món gia vị này dùng tay bóp lẫn với nhau. Mùi mẻ, riềng, mắm tôm dậy lên đã làm nhiều người nuốt nước bọt. Sau khi ướp khoảng 15 - 20 phút. Nước đun thật sôi, cho các thứ vào nồi đảo đều, đun lửa âm ỉ cho chín kỹ. Có thể cho vào nồi canh đắng một ít chuối cây non thái thật mỏng như lá mạ, một ít gạo nếp hoặc tẻ. Canh chín. Múc cho mỗi người một bát con vừa thổi vừa húp. Mùa Đông ăn vào đến đâu bụng ấm đến đấy. Bát canh đắng gồm đủ các mùi vị ăn xong ở cổ, miệng, môi, đầu lưỡi vẫn còn đọng lại vị cay, đắng, ngọt ngào … chỉ cần dùng vài lần là nghiện và cứ ao ước đến cái mùi vị lạ kỳ cuốn hút như có sức thôi miên. … Húp bát canh đắng, cái bụng như nhẹ hẳn, người tiêu hoá yếu vẫn cứ an tâm. Khi ăn xong vẫn còn thòm thèm.



CÁ MÈ SÔNG MỰC





Sông Mực (Vườn Quốc gia Bến En) có nhiều loại cá. Nhưng đặc sản vẫn là cá Mè. Do đặc điểm của sông rộng gần 4.000 ha, vừa có độ sâu trên 30m, lượng phù du sinh vật dồi dào nên cá Mè vừa béo vừa to, có con nặng trên 30kg. ăn cá Mè có nhiều cách như: Rán, nấu om, băm viên rán chả, nấu lẩu nhưng hấp dẫn nhất vẫn là cá Mè luộc chín cộng thêm các món gia vị như: rau thơm, ớt, chuối xanh, lộc sung, khế, giá sống … Cuốn bánh đa nem với các thứ trên. Cái béo ngậy của thịt cá kèm theo vị chát của chuối, của sung, vị chua của khế, vị ngọt của giá sống, vị thơm dịu của rau thơm. Cuốn xong, chấm với nước mắm được pha chế với ớt, chanh, đường, tỏi. Được chấm với nước mắm ngon của Thanh Hoá thì còn gì bằng.

Chất béo quyện với vị chát, vị chua, vị ngọt, vị thơm đã hấp dẫn vành môi, đầu lưỡi rồi nhưng nếu được nhấm nháp, với vài ly rượu đế ngon nữa thì thật là sảng khoái.





CƠM LAM



Mưa phùn lất phất chân mây …

Giêng- hai rét lộc cho cây đâm chồi.

Trong cái lạnh đến xiêu lòng, mà được ngồi quây quần quanh bàn ăn thưởng thức món cơm lam Xứ Thanh thì tuyệt vời. Trên bếp than rực hồng, tí tách reo vui. Nhẹ tay bóc lớp vỏ tre mà tất cả các công đoạn được làm sẵn vẫn giữ được màng lụa nuột nà của ruột tre quanh những hạt nếp thơm lừng vừa chín tới, ăn với chút muối vừng vẻ hoang dã thì không còn cảm giác ngán ngây. Cơm lam là món ăn truyền thống của cộng đồng các dân tộc miền núi, từ bao đời nay: Mường, Nùng, Dao, Mán, Thái … Nguyên liệu là loại nếp nương đồi, gặt về tuyển chọn kỹ càng. Cách làm cơm lam cũng không khó: gạo nếp được vo, ngâm kỹ cho vào ống tre tươi non dài khoảng 35 - 40cm. Để cơm lam có vị hương cho thêm hương liệu núi rừng, ở mỗi làng bản, bà con có đặc thù vị hương món cơm lam của mình. Do gạo ngâm, vo kỹ, tích đủ lượng nước, nên khi xoay đều nướng trong lửa nhiệt, hơi bên trong ống tre làm hạt gạo dẻo quạnh toả lan một mùi thơm quyến rũ khó cưỡng nổi. Vì thế cơm lam vẫn giữ được hồn quê, phong vị riêng của nó, không thể lẫn được.



RƯỢU NẾP CẨM



Đến các bản (làng) của người Mường - Thanh Hoá, du khách sẽ được dự những buổi sinh hoạt 'văn hoá rượu cần'. Ngoài ra du khách còn được thưởng thức một thức uống độc đáo khác nữa của người Mường, đó là 'Rượu nếp cẩm' (thứ rượu ủ, không chưng cất).

Thổ ngơi của xứ Mường đã ban tặng cho người dân nơi đây một loại lương thực hiếm có: gạo nếp cẩm. Cái màu đỏ tím từ vỏ trấu thấm vào đến tận ruột gạo, tạo nên một hương vị đặc biệt, khác với nhiều loại gạo nếp thường. Người dân ở đây thường dùng loại gạo nếp cẩm để làm rượu.

Cứ đến tháng 10 (âm lịch) lúa nếp cẩm được bà con gặt từ trên nương (ruộng) đem về đập phơi khô cất gác nơi khô ráo. Để chuẩn bị mẻ rượu dùng vào dịp Tết, hội xuân, dịp vui, người ta dùng cối xay tre (hoặc máy bóc vỏ liên hoàn) xát bật vỏ trấu không để xây sát hạt gạo, sàng sảy sạch sẽ đem ngâm nước (chừng 10 - 12 giờ).

Người xưa ủ rượu cẩm rất công phu, quan trọng hàng đầu là việc chọn men. Muốn làm men rượu phải có bí quyết gia truyền. Đặc biệt những người biết làm men rượu thường phải vào tận rừng sâu, kiếm sa nhãn và thiên niên kiện là 2 vị chính dùng để làm men, tất nhiên còn phải kèm theo một số vị khác nữa, từ rễ, từ củ, từ lá của mấy loại cây nhất định, để đảm bảo cho rượu nếp cẩm có hương vị riêng.

Gạo nếp cẩm sau khi được đồ chín, vãi ra nong tre hoặc sàng quạt nguội, cho men lá cây vào trộn đều ủ đúng 3 ngày. Gạo lên men thành cơm rượu thơm ngọt, cho vào chum sành có thể đổ thêm một (vài) lít rượu nếp thường sẵn có, bịt kín chum bằng lá chuối khô, hoặc cũng có thể bằng nhiều lượt vải ni lông. Chum rượu được hạ thổ tại chỗ giọt gianh của nhà sàn, để thường xuyên được thấm giọt mưa, giọt sương từ trên trời rơi xuống. Khi hạ thổ chum rượu người Mường thường lầm rầm cầu khấn với nội dung 'xin thổ thần thổ địa, cai quản giúp cho bình rượu thơm ngon tinh khiết đem lại sức khoẻ cho người ốm yếu, sự trẻ trung cho người già cả, lòng chung thuỷ cho đôi trẻ'.

Sau 3 tháng 10 ngày, bình rượu thu hút đủ độ âm - dương là rượu có thể đem dùng. Người ta đào rượu lên, dùng khăn sạch tách lọc phần nước và bã. Rượu nếp cẩm vừa sánh vừa tím óng lên như mật, được hứng vào sừng trâu, hoặc vào ấm sành, tuỳ theo độ tuổi và thể trạng mà nhâm nhi, thấy đó quả là một liều thuốc tăng lực và phấn chấn tinh thần. Phụ nữ mới sinh có thể dùng lòng đổ trứng gà đánh tan nhuyễn với mật ong hoà với rượu nếp cẩm để phục hồi sức khoẻ.

Thứ rượu độc đáo này phù hợp với mọi lứa tuổi và giới tính. Chỉ một lần 'nếm' thử chắc chắn du khách sẽ thật khó quên./.





HẾN GIÀNG


Làng Giàng- huyện Đông Sơn nằm kề bên sông Mã. Khúc sông này, nhờ dòng chảy và nền cát đặc biệt rất thuận lợi cho loài hến sinh sôi. Hến bán hầu khắp các chợ quê, làm món ăn bình dân. Họ mua về chủ yếu để nấu canh. Ruột hến luộc trắng nhờ nhờ. Nước hến luộc trắng lờ đờ.

Làm chi dở đục dở trong

Lờ đờ nước hến cho lòng tương tư.

Nhưng hến giàng vỏ không đen và nước luộc trong, lại không có mùi vị hăng hắc, nấu canh ngọt, xào lên rất ngon, làm mắm càng tốt, đến nỗi vua chúa miệng quen ăn sơn hào hải vị cũng ưa thích.

Có một ông vua (triều Nguyễn thì phải) ngự giá qua bến Giàng (thời xưa đường thiên lý Bắc - Nam qua bến Giàng), nghe tiếng hến Giàng ngon, vua đòi ăn, rất khen ngợi. Từ đó hàng năm có lệ làng Giàng hến phải cung tiến hến.

Hến tiến lên vua, dĩ nhiên phải chọn lọc hết sức cẩn thận. Đó là những con lớn, vỏ không đen, không sần sùi, sinh sống chỗ luồng nước sạch. Khi vận chuyển hến phải mang theo cát và nước sông Giàng để hến vẫn được sinh sống trong môi trường quen thuộc. Đồ đựng hến phải là thùng gỗ hoặc thúng mủng mới, khảm sắn, đường, giấy bản, lá bời lời, để nước khỏi chảy và con vật không bị ô uế. Việc vận chuyển hến khá công phu, đúng là 'của một đồng công một nén'. Trai tráng làng Giàng năm nào cũng phải thay phiên cắt lượt gánh hến vào tận kinh đô Huế, đêm ngày lo ngay ngáy, cất giữ sao hến không chết, không gầy. Một con hến chết gây nhiễm bẩn cả thùng. Hến bị gầy, tất nhiên vua ăn mất ngon.

Hến chở đến kinh dô, không thể dừng chân nghỉ, cứ thay phiên nhau gánh, đi miết ngày đêm. Đã được tiền trạm báo tin trước, quan ngự thiện đợi sẵn, nhận ngay. Ông sai đầu bếp nấu thử dâng lên vua, thấy nước hến trong, có ánh biêng biếc, vị ngọt thanh, không hắc … được vua phê chữ 'hảo', đoàn vận chuyển hến mới thở đánh phào, cất đi gánh nặng khỏi vai mà thong thả ra về.

Có lần nhà vuia đi qua bến Giàng thấy một cô gái mò hến dưới sông, dáng hình rất xinh đẹp, đem lòng yêu. Cô tên là Hến, người làng Giàng Hến, vì nhà nghèo quá, ngày nào cũng phải lặn hụp dưới sông, mò hến từ sáng đến tối để đổi gạo mà tóc vẫn đen mượt, da dẻ vẫn nuột nà. Vua đưa Hến theo thuyền ngự về kinh đô, đổi tên Ngọc Hến, cho vào hầu trong cung.

Ngày tháng trôi đi, ông vua già yếu dần, Trước khi từ trần, vua muốn ban ơn cho một số phi tần trẻ không con cái được trở về quê, trong đó có nàng Ngọc Hến. Họ muốn xin bao nhiều vàng, bạc làm vốn sinh nhai, cứ thực tâu bày. Ngọc Hến nói nàng không dám xin vàng bạc, chỉ xin nhà vua ban ơn trời để miễn cho làng Giàng quê mình khỏi lệ cung tiến hến. Nhà vua cảm động gật đầu.

Làng Giàng Hến từ đó thoát nạn cung tiến hến. Họ rất biết ơn cung phi Ngọc Hến, tên gọi nàng là 'Bà Chúa Hến'.

Cũng từ đó, hến Giàng có mặt khắp chợ cùng quê, đem cái ngon ngọt đến cho mọi nhà. Hến Giàng tuy đắt giá hơn hến thường nhưng vẫn được nhiều người ưa chuộng.

Nghe nói nhà vua rất thích ăn các món: canh hến nấu rau tầm tơi, dấm hến nấu lá tai chua hay là chua me, hến xào khô với miến đậu xanh, hến xào nước với thịt nạc để kẹp bánh tráng…

Theo 'Vân Đài loại ngữ' (Lê Quý đôn) thời xưa ở Trung Quốc trong các bữa yến tiệc sang trọng thế nào cũng phải có món mắm hến.

Trong dân gian ta mắm hến cũng là món ăn ngon, quý. Năm hến dùng chấm bánh đúc, bún, bánh cuốn, thịt lợn luộc … đều thích hợp.

Làm mắm hến tốn công. Ngâm hến vào nước trong 3 ngày ba đêm, mỗi ngày thay nước một lần để hến nhả hết cát, chất bẩn. Rửa sạch vỏ hến, bỏ vào nước nóng chừng 25 - 300 đủ vừa để hến há miệng nhưng không chết hẳn, Khều ruột hến ra, lọc bỏ con chết, trộn muối, không làm ruột hến dập nát, cho vào vại sành. Liều lượng mmuôid theo tỷ lệ từ 3 đến 5 hến một muối tuỳ theo khẩu vị thích ăn mặn hoặc nhạt. Phía trên hến rắc một lượt muối mỏng chống ruồi nhặng. Dùng vải màn thưa bịt miệng vại. Ngày phơi nắng đêm thả sương. Nếu muốn hến chóng ngấu, cho thêm chút men rượu (không được dùng men nhiều làm hỏng mắm). Khoảng ba tháng, mắm hến chín. Rang thính gạo trộn vào với hến. Lại đem vại mắm phơi. Nên nhớ mắm hến phải được nắng mới mau chín và dậy mùi thơm. Cũng như mắm tép, mắm hến để lâu càng ngon. Có khi người ta bỏ thêm riềng củ giã nát vào mắm hến để khi ăn tăng thêm mùi vị cay thơm … Tôi cho rằng riềng, gia vị mắm hến rất cần thiết. Vì thịt hến bổ nhưng tính hàn, bởi nó sống dưới bùn nước; những người tính hàn hoặc mắc bệnh hư hàn, ăn thịt hến không chịu, cần có vị cay ấm của riềng để làm giảm bớt tính hàn trong hến. Theo sách 'Bản thảo' (dược học) thịt hến cũng như thịt trai, nhuận được ngũ tạng, trị bệnh tiểu khát và lợi về quan tiết (đốt khớp).

Hiện nay, ở thành phố Thanh Hoá, có cửa hàng cơm hến rất đông khách và hến Giàng được coi là đặc sản Xứ Thanh./.



GIÒ LỤA

'Giò lụa
ơng vị đậm đà

Nếu về Thanh Hoá mua quà cho em'



Không riêng gì người Việt Nam mà mọi người trên cả thế giới đều biết đến các món ăn được chế biến từ thịt lợn như: thịt quay, giả cầy, thịt luộc, thịt đông, kho tàu… đủ món. Giò lụa là món ăn độc đáo mà chỉ có người nước ta làm ra mà thôi.

Cỗ bàn từ thành thị đến thôn quê, trên mâm thế nào cũng phải có đĩa giò lụa, khoanh giò khéo tay cắt tỉa như đĩa hoa.

Nước ta sẵn thịt lợn, lá chuối, mắm muối, lạt giang, chẳng phải nhập ngoại. Phụ nữ khéo tay, hay làm sẽ có cân giò lụa ngon.

Cách làm:

1kg thịt nõn mông, thịt vai phải tươi sờ còn ấm tay, thịt bỏ tủ lạnh làm mất công, phí của.

Thịt thái bỏ vào máy xay nhuyễn. Nước mắm ngon hoà với mỳ chính, thêm một chút bột tẻ khuấy đều đổ vào máy nghiền cắm điện cho xay tiếp chừng vài ba phút thấy dẻo là được.

Lá chuối (trừ lá chuối tiêu) rửa sạch lau khô, xếp 3 - 4 lớp ngang, dọc, lá trong non hơn lá ngoài.

Thịt nghiền xay xong bỏ vào túi nylon để dễ gói. Gói tròn hình trụ dài chừng 25cm, đường kính độ 10cm. Lạt buộc dẻo, mỏng.

Luộc giò là khâu chính. Chín quá giò dai, vớt sớm trong không chín. Giò bỏ vào nồi phải dựng đứng, lá chuối chèn chặt. Nước luộc giò phải trong, sạch, không đổ ngập giò. Trước đây người làm giò thắp một que hương đen dài chừng 40cm, hương cháy hết là giò vừa độ chính, nay có đồng hồ từ lúc nước sôi đến lúc vớt chừng 30 phút. Vớt xong phải treo nơi thoáng để giò ráo nước. Giò treo toả mùi thơm đậm, chưa ăn mà đã cảm thấy ngon.

Đi chợ mua giò thấy khoanh giò mịn là giò pha nhiều bột, ăn bở, nếu giòn bỏ hàn the vào, giò ngon mặt lát giò thỉnh thoảng có vài ba lỗ nho nhỏ.

Một số nhà làm hàng sau khi nghiền máy bỏ vào cối giã tiếp, 2 tay cầm chày giã liên hồi kỳ trận, chày hơi nghiêng vào lồng, thịt nhuyễn dẻo tra nước mắm thật ngon đã hoà một chút bột tẻ, thục cho đều, lấy mo cau thém lại, múc ra gói giò. Nhiều nhà đắt hàng, giò làm đến đâu bán hết đến đó (không bỏ diêm tiêu, hàn the, thuốc chống thối).

Để tiện cho khách nhậu tại quán, nhà hàng, giò làm loại nhỏ như kiểu bánh răng bừa, bánh bột lọc loại 1.000 đồng, 2000 đồng ăn đến đâu mua đến đó, không phải cân kéo lôi thôi, đó là giò lụa cải tiến, hợp túi tiền.

Nghề làm giò lụa ngày càng nhiều. Ở thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ nơi nào cũng có. Thưởng thức giò lụa - món ăn dân tộc đậm hương vị cổ truyền, trẻ già, trai gái ai cũng thích.



CHẢ TÔM

Mưa bụi bay bay trong tiết trời se lạnh mà được ngồi quây quần quanh bàn ăn, thưởng thức món chả tôm Xứ Thanh thì tuyệt vời làm sao. Trên bếp than rực hồng đang ửng dần cùng với tiếng xèo xèo của mỡ bắt lửa thì cánh mũi dễ phập phồng bởi một mùi thơm quyến rũ toả lan.

Cách làm chả tôm cũng không khó lắm song đòi hỏi phải tỉ mỉ, cẩn thận, nếu chỉ ẩu một chút coi như chẳng còn hương vị gì. Để chả tôm được ngon như ý, phải chuẩn bị đủ nguyên liệu và gia vị cần thiết.

Quy trình tiến hành như sau:

Bạn hãy chọn loại tôm bột đều con, bóc nõn nà, rắc hạt tiêu, hành băm nhỏ, càng mịn càng ngon rồi cho hỗn hợp vào chảo bắc lên bếp lửa hồng, xào thơm. Sau đó ta tuần tự: Thịt ba chỉ (khổ mỡ nhiều hơn nạc) đem thái hạt lựu, rán vàng, đem băm lẫn với bánh phở, thịt gấc, hành khô, tiêu bột, mì chính, tất cả trộn đều, cho vào cối giã tay cho kỳ nhuyễn. Trong quá trình giã, có thể cho thêm mỡ nước chắt ra từ lúc rán thịt. Vỏ ngoài người ta chọn loại bánh phở dày và dai hơn bánh thường một chút, cắt chiều ngang 2cm, chiều dài khoảng 7 - 8cm, rồi rải nhân lên cuốn lại bằng quân cờ. Sau khi cuốn xong, kẹp chả tôm vào cái kẹp tre tươi rồi đem nướng. Mỗi kẹp khoảng 4 miếng gọi là 1 gắp. Than xoan được quạt hồng trong cái ang bằng đất. Đặt gấp chả lên quạt xoay qua lật lại độ vài lần mùi thơm đã dậy. Khi chả tôm chín được bày ra trên đĩa sứ ánh một mầu vàng rộm hấp dẫn. Bên cạnh đĩa chả tôm là đĩa rau ghém đủ vị thêm vài lát khế hình cánh sao, củ hành tươi chẻ nhỏ. Gắp một miếng chả tôm kèm rau ghém chấm vào bát nước mắm pha đủ chua, cay, mặn, ngọt, có thêm chút đu đủ xanh ngâm làm dưa góp mới đụng vào đầu lưỡi là cái thèm đã lan toả khắp giác quan. Vị ngậy đậm đà làm ta như vừa muốn ăn, lại như vừa muốn giữ lại cái vị đặc trưng của chả tôm trên đầu lưỡi như sợ nó tan mất./.



BÁNH GAI TỨ TRỤ


Tứ Trụ thuộc xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân, cách thành phố Thanh Hoá 40 km về phía Tây. Thế kỷ thứ XV, Tứ Trụ nằm trong vùng căn cứ khởi nghĩa Lam Sơn do anh hùng dân tộc Lê Lợi lãnh đạo.

Bánh gai Tứ Trụ khởi đầu là do người làng Mía trong vùng làm ra để cúng giỗ Lê Lợi, Lê Lai, cúng ông bà Tổ tiên trong Tết Nguyên đán và lễ hội trong năm. Dần dần nghề làm bánh gai được phổ biến ở các làng vùng Tứ Trụ xã Thọ Diên và trở thành đặc sản của xứ Thanh nổi tiếng cả nước.

Nguyên liệu làm dễ tìm kiếm, nhưng lại hơi cầu kỳ. Gạo nếp cái hoa vàng xay lọc lấy tinh bột, mật mía loại ngon nhất vùng, thịt lợn nạc làm thành ruốc bông, đậu xanh đãi vỏ, đồ chín giã nhỏ, dừa già nạo thành sợi trắng như sợi cước, vừng rang vàng thơm, lá gai (cây gai mọc trên đồi, củ gai thường làm thuốc an thai) tước gân, luộc lên giã nhỏ lấy tinh bột, lá chuối khô để gói bánh.

Cách làm bánh: Đem tinh bột nếp trộn với bột lá gai và mật mía rồi cho vào cối đá giã kỹ. Càng giã kỹ càng dẻo, bánh càng dai, càng ngon. Công đoạn này quan trọng nhất, vất vả nhất gọi là luyện bột.

Bột luyện xong nặn thành bánh. Đậu xanh trộn với mật mía, với ruốc thịt cấy vào làm nhân. Bánh màu đen, ngoài vỏ cấy dừa sợi và vừng đã rang vàng. Sau đó dùng lá chuối khô, gói bánh (khoảng 10 lớp lá) xếp 5 cái bánh xếp thành một cuộn tròn buộc lại bằng lạt giang nhuộm phẩm đỏ cho đẹp. Đặt bánh vào chõ, đồ cho đến lúc bánh chín. Bánh gai Tứ Trụ có hương vị ngon mà các loại bánh ngọt khác không có được./.



CÁC MÓN RƯƠI



Con Rươi có tên chữ là là Bách Cước (trăm chân) hoặc là Hoà Trùng. Hình dạng giống con rết với màu xanh, vàng, tía. Rươi là loài sinh vật thân mềm ở vùng sông nước lợ. Ai mới thấy lần đầu thì khiếp lắm chứ đừng nói đến ăn.

Thôn Văn Giáo thuộc xã Quảng Vọng của huyện Quảng Xương có nghề đánh bắt rươi - một đặc sản cực kỳ quý - giá nhờ có đoạn sông Yên (còn gọi là sông Ghép) chảy qua trước khi đổ ra biển nơi lạch Mom.

Thịt rươi có vị béo ngậy và bùi, chứa khá nhiều đạm, nhiều đạm hơn cả cua gạch, tôm he. Có thể chế biến thành các món ăn như rươi nấu, rươi đúc trứng, mắm rươi. Nói về món rươi nấu, dùng nước sôi chùng rươi trong khoảng mươi lăm phút hoặc cũng có thể dùng dấm rửa (nếu lượng rươi ít) nhằm thải bỏ chất nước trắng đục ra khỏi rươi. Cách này gọi là làm 'lông' rươi. Chùng rửa như thế xong, đổ ra giá hoặc rổ có lỗ đan nhỏ để cho nước thoát hết. Gia vị để nấu rươi gồm vỏ quýt, ớt, củ sả, khế, hành tươi hoặc khô, gừng củ cùng với các loại lá khác như: lá lốt, lá gấc, lá đinh lăng. Tất cả gia vị vừa đủ, thái nhỏ. Rươi cho vào nồi đun, vừa đun vừa dùng đũa bếp đánh liên tục cho rươi tơi ra. Tới lúc thấy không còn nước trong nồi nữa thì đổ ra bát to hoặc đĩa lớn đặt chảo lên bếp, phi hành mỡ cho thơm rồi đổ rươi vào xào. Sau đó cho tất cả gia vị vào xào tiếp, nêm mắm muối vừa ăn. Xào cho khô hết nước là được. Rươi nấu ăn với bánh tráng vừng là tuyệt nhất.

Món rươi đúc trứng thì làm như sau: Rươi đã 'làm lông', đánh cho tơi (dĩ nhiên không cho gia vị như rươi nấu) trộn với hành củ hoặc hành tươi dã dập và băm nhỏ, một ít hạt tiêu xay và nêm mắm muối vừa ăn. Đập trứng vào, dùng đũa đánh trộn đều. Đặt chảo lên bếp, phi hành mỡ cho thơm rồi đúc. Đun lửa vừa và đậy vung để khỏi chín táp. Gần chín thì mở vung cho thoát hết nước.

Với món mắm rươi thì cách làm rất đơn giản, chẳng khác gì cách làm cá trỏng, cách làm mắm tôm (mắm moi, ruốc).

Nhưng ít người ăn sống được món mắm rươi này. Vì thế thường là phải chế biến. Cách chế biến món mắm rươi là như thế này. Cần nhiều gia vị gồm hành củ khô hoặc rau tươi, gừng củ và sả củ, ớt tươi hoặc khô, nếu có điều kiện thì thêm thịt ba chỉ. Tất cả thái và băm nhỏ rồi trộn với mắm sống. Phi hành mỡ cho thơm trong chảo rồi đổ mắm đã trộn gia vị vào, đảo đều khoảng 10 phút. Sau đó đậy vung đun tiếp năm, sáu phút nữa là được. Mắm rươi chưng ăn với rau diếp, xà lách thì chẳng thứ mắm nào ngon bằng.

Mưa sao băng








phố cổ hội An

Phố cổ Hội An hay Hoài Phố - là một khu vực phố cổ trong thành phố Hội An, được xây từ thế kỷ 16 và vẫn còn tồn tại gần như nguyên vẹn đến nay. Trong các tài liệu cổ của phương Tây, Hội An được gọi Faifo. Phố cổ Hội An được công nhận là một di sản thế giới UNESCO từ năm 1999
1. Chùa cầu
Địa chỉ: Tiếp giáp giữa đường Nguyễn Thị Minh Khai và đường Trần Phú, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Chùa Cầu (còn gọi là Cầu Nhật Bản, hay Lai Viễn Kiều)được xây dựng từ năm 1693 đến năm 1696, là công trình kiến trúc độc đáo do các thương gia Nhật Bản đến buôn bán tại Hội An xây dựng vào khoảng giữa thế kỉ 16. Sau nhiều lần trùng tu, các yếu tố kiến trúc Nhật Bản đã dần mất đi, thay vào đó là kiến trúc mang đậm phong cách Việt Nam và Trung Quốc.

Chùa Cầu là tài sản vô giá và đã được chính thức chọn làm biểu tượng của đô thị cổ Hội An. Hình Chùa Cầu được in trên tờ giấy bạc polymer 20.000đ của Ngân hàng Nhà nước Việt nam[sửa] Nhà cổ Tấn Ký
Địa chỉ: 101 Nguyễn Thái Học, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam

Mt góc phố cổLà một trong những ngôi nhà cổ đầu tiên và đẹp nhất của Hội An. Trải qua hơn 200 năm, ngôi nhà vẫn giữ được lối kiến trúc cổ xưa với sự kết hợp hài hòa của ba nền văn hóa Nhật, Trung, Việt. Ngôi nhà nổi tiếng với đôi liễn bách điểu (có khắc bài thơ mà mỗi nét chữ là một con chim đang dang rộng cánh bay) và chén Khổng Tử.

2. Nhà cổ Quân Thắng
Địa chỉ: 77 Trần Phú, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Là một trong những nhà cổ được đánh giá là đẹp nhất Hội An hiện nay. Ngôi nhà có niên đại hơn 150 năm, mang phong cách kiến trúc vùng Hoa Hạ Trung Hoa. Qua năm tháng, ngôi nhà vẫn được bảo tồn khá nguyên trạng về kiểu dáng kiến trúc và các bài trí nội thất, giúp ta hình dung được phần nào lối sống của các thế hệ chủ nhân, những người thuộc tầng lớp thương gia ở thương cảng Hội An trước đây. Được biết, toàn bộ phần kiến trúc và điêu khắc gỗ rất sinh động, tinh tế của ngôi nhà này đều do các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng thực hiện.

3. Nhà cổ Phùng Hưng
Địa chỉ: 4 Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Với tuổi thọ hơn 100 năm, nhà Phùng Hưng có kết cấu độc đáo với phần gác cao bằng gỗ và các hành lang rộng bao quanh, thể hiện sự phát triển về kiến trúc và sự giao lưu giữa các phong cách kiến trúc Á Đông tại Hội An trong các thế kỷ trước đây. Ngôi nhà chứa đựng nhiều thông tin về lối sống của tầng lớp các thương nhân ở thương cảng Hội An xưa. Mặc dù cũng được thực hiện bằng chất liệu quý nhưng nhà Phùng Hưng không chạm trổ, điêu khắc cầu kỳ mà được giữ thô một cách cố ý.

Nhà Phùng Hưng được cấp bằng di tích lịch sử - văn hoá quốc gia vào ngày tháng 6 năm 1993.

4. Hội quán Phúc Kiến

Hội quán Phúc KiếnĐịa chỉ: 46 Trần Phú, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Tương truyền, tiền thân của Hội quán là một gian miếu nhỏ thờ pho tượng Thiên Hậu Thánh Mẫu (bà chúa phù hộ cho thương nhân vượt sóng gió đại dương) vớt được tại bờ biển Hội An vào năm 1697. Qua nhiều lần trùng tu, với sự đóng góp chủ yếu của Hoa kiều bang Phúc Kiến, hội quán càng trở nên rực rỡ, khang trang góp phần tô điểm diện mạo kiến trúc đô thị cổ Hội An. Thông qua cách bài trí thờ phụng các hình nhân: 6 vị tiền hiền (lục tánh), bà mụ, thần tài ... hội quán thể hiện sâu sắc triết lý Á Đông về hạnh phúc con người.

Hàng năm, vào các ngày Nguyên Tiêu (15 tháng Giêng âm lịch), Vía Lục Tánh (16 tháng 2 âm lịch), vía Thiên Hậu (23 tháng 3 âm lịch) ... tại hội quán Phúc Kiến diễn ra nhiều hoạt động lễ hội thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham gia.

Hội quán Phúc Kiến đã được cấp bằng di tích lịch sử - văn hoá quốc gia ngày 17 tháng 2 năm 1990.

5. Hội quán Triều Châu

Hội quán Triều ChâuĐịa chỉ: 157 Nguyễn Duy Hiệu, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Được Hoa kiều bang Triều Châu xây dựng năm 1845, hội quán thờ Phục Ba tướng quân Mã Viện một vị thần chế ngự sóng gió giúp cho việc buôn bán trên biển được thuận lợi. Hội quán có kết cấu kiến trúc đặc biệt với bộ khung gỗ trạm gỗ chạm trổ tinh xảo, cùng những họa tiết, hương án trang trí bằng gỗ và những tác phẩm đắp nổi bằng sành sứ tuyệt đẹp.

6. Hội quán Quảng Đông
Địa chỉ: 17 Trần Phú, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Hội quán được Hoa kiều bang Quảng Đông xây dựng vào năm 1885, thoạt đầu để thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu và đức Khổng Tử, sau năm 1911 chuyển sang thờ Quan Công và Tiền Hiền của bang.

Với nghệ thuật sử dụng hài hoà các chất liệu gỗ, đá trong kết cấu chịu lực và hoạ tiết trang trí đã đem lại cho hội quán vẻ đẹp đường bệ, riêng có. Hàng năm, vào ngày Nguyên Tiêu (15 tháng Giêng Âm lịch), vía Quan Công (24 tháng 6 Âm lịch) tại đây diễn ra lễ hội rất linh đình, thu hút nhiều người tham gia.

7. Chùa Ông

Chùa ÔngĐịa chỉ: 24 Trần Phú, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Chùa Ông được xây dựng năm 1653, đã qua 6 lần trùng tu vào các năm: 1753, 1783, 1827, 1864, 1904, 1906. Chùa Ông có kiến trúc uy nghi, hoành tráng, tại đây thờ tượng Quan Vân Trường (một biểu tượng về trung - tín - tiết - nghĩa) nên còn có tên gọi là Quan Công Miếu. Chùa Ông đã từng là trung tâm tín ngưỡng của Quảng Nam xưa, đồng thời cũng là nơi các thương nhân thường lưu đến để cam kết trong việc vay nợ, buôn bán, làm ăn và xin xăm cầu may.

8. Quan âm Phật tự Minh Hương
Địa chỉ: 7 Nguyễn Huệ, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Đây là ngôi chùa thờ Phật duy nhất còn lại giữa khu phố cổ, có kiến trúc và cảnh quan xinh đẹp đồng thời còn lưu giữ gần như nguyên vẹn các tác phẩm điêu khắc gỗ đặc sản do các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng thực hiện. Chùa thờ Quan Thế Âm Bồ Tát và một số chư vị Phật, Bồ Tát khác, vì vậy trong những ngày lễ, ngày rằm thường có rất nhiều người đến

9. Nhà thờ tộc Trần
Địa chỉ: 21 Lê Lợi, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Do một vị quan họ Trần (một dòng họ lớn từ Trung Hoa di cư đến Hội An vào những năm 1700) xây dựng năm 1802 theo những nguyên tắc phong thuỷ truyền thống của người Trung Hoa và người Việt. Toạ lạc trên một khu đất rộng khoảng 1500 m², có nhiều hạng mục: nhà thờ tự ông bà và trưng bày các di vật liên quan đến dòng họ, nhà ở ... Đây là nơi tụ họp con cháu vào dịp lễ bái, tri ân tổ tiên và giải quyết những vấn đề trong dòng tộc.

Nhà thờ tộc Trần là một trong những điểm tham quan điểm tham quan được nhiều du khách quan tâm.

10. Nhà thờ tộc Trương
Địa chỉ: 69/1 Phan Chu Trinh, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Lễ hội
11. Đêm rằm Phố Cổ

Đêm rằm phố cổ-một sản phẩm du lịch đặc trưng của phố cổPhố cổ Hội An hàng tháng vào ngày 1 và ngày 15 thường tổ chức đêm rằm phố cổ, tất cả các ngôi nhà trong phố cổ đều thắp đèn lồng, cấm xe máy và tổ chức các hoạt động du lịch phong phú. Vào những ngày này, tất cả các đoạn đường đều cấm xe máy và hình thành nên phố đi bộ. Hiện nay, đêm rằm Phố Cổ được tổ chức định kỳ vào cuối tuần.

12. Bài chòi

Hát bài chòiBài chòi là hoạt động diễn ra vào đêm rằm phố cổ rất thu hút du khách, đặc biệt là du khách nước ngoài. Đây là một trò chơi dân gian còn bảo tồn khá tốt tại Quảng Nam.

13. Ẩm thực Phố Cổ
Cao lầu
Cao lầu ở Hội AnCơm gà Hội An
Mỳ Quảng
Bánh bao bánh vạc Hội An hay có tên gọi khác là bánh hoa hồng
Bánh ít lá gai
Bánh đậu xanh nướng

Thứ Hai, 16 tháng 11, 2009

Thứ Sáu, 6 tháng 11, 2009

Có một Đà Lạt của Đà Nẵng

a Sau tám tiếng đồng hồ luồn rừng mệt nhoài, tôi đã chinh phục được đỉnh cao lên đến một vùng đất bằng phẳng khoảng 10ha. Chính nơi đây là một thị trấn nghỉ mát xưa, giờ đây chỉ còn là phế tích. Tôi miên man nghĩ về Bà Nà - mùa xuân của nước Pháp - như những người từng phát hiện ra nó ngợi ca. Hoặc Bà Nà là Đà Lạt của Đà Nẵng, như cách ví von của tôi, do chân ngắn quá không đi được nhiều nơi để có cái mà so sánh: tôi chỉ thấy như Đà Lạt là sướng lắm rồi. Lúc ở độ cao khoảng 1000m, mới có 16h, nhiều người đã phải lấy áo ấm ra mặc.

Lên Bà Nà hiện nay bạn nhìn thấy gì? Chẳng còn gì ngoài một chút hoài niệm. Này đây, bến xe một thời nhộn nhịp, những chuyến xe nối lên mạn ngược, miền xuôi, tạo đường dây thông tin, làm cho khu nghỉ biệt lập nhưng gần gũi đời thường. Này đây, nhà hàng Morin, đêm đêm đèn màu lấp lánh, những điệu nhạc du dương, những đôi trai gái của một khu cư dân không sầm uất lại có điều kiện gặp nhau, thổ lộ tình yêu. Còn kia là nhà thờ, những buổi tinh mơ vang lên hồi chuông sớm mời gọi người cầu kinh chào ngày mới. Vâng, có nhiều nơi để viếng thăm lắm. Trập trùng, cao thấp trên 240 ngôi nhà, nằm rải rác trên những ngọn đồi, nay chỉ còn lại những nền đổ nát, gợi nhớ bóng dáng xưa.

Màn đêm buông xuống, ấy là lúc cái lạnh đồng hành, không phải là cái lạnh cắt da mà chỉ gây gây, đặc trưng của khí hậu ôn đới. Hãy nổi lửa lên ! Trước hết là sưởi ấm, sau đó trở về với thiên nhiên hoang dã. Dăm cốc rượu sẽ tăng vị đậm đà cho không khí giao lưu, để cùng nhau thức đến 21 giờ, đợi cho sương tan, nhìn về Đà Nẵng mới đẹp làm sao. Ít nhất là trong lúc này, bạn có cảm giác mình là chàng khổng lồ Gu-li-vơ, khi nhìn thấy một vùng non nước bao la bên dưới. Li ti như kiến là những toà nhà sáng ánh diện, những vệt sáng mảnh dẻ là những con đường. Lồng lộng nơi xa là biển cả, những dòng sông, những núi đồi bùng lên dưới ánh trăng vằng vặc như một bức hoạ màu nước cực lớn.

Chúng tôi giã từ Bà Nà lúc trời mưa tầm tã, vượt qua dốc cuối cùng, tức dốc đầu tiên lúc lên, được bà con địa phương đặt tên là dốc Dằn Mặt - vì mới đề pa đã gặp phải dốc rất dài, dựng đứng, làm người leo núi khiếp đảm ngay từ đầu. Phải chúi người để tụt dốc nên những đầu ngón chân tê dại. Cảm giác ê chề, rã rời vào những phút cuối ập đến, khiến ai cũng khao khát giây phút được thả ba lô, nằm xoải tay của một người hoàn thành nhiệm vụ làm sao! Nhưng kìa, những mái nhà, những ruộng lúa đã hiện ra. Đến đồng bằng rồi. Những mệt mỏi bỗng biến đâu mất. Tôi cởi áo mưa, tắm mình trong cơn mưa nặng hạt như tắm trong niềm thắng lợi chinh phục đỉnh cao. Tôi ngước đầu, độ ngược hết cỡ, đánh rơi cả mũ để nhìn lại hành trình mình đã đi qua. Thật là ngoài sức tưởng tượng. Cao cao quá! Đỉnh Bà Nà băng ngang giữa lưng trời, bềnh bồng, ẩn hiện trong mưa.

Bà Nà đang được quan tâm. Bà Nà đang được vén dần những lớp mây để phô ra vẻ diễm kiều với đời. Mai mốt đây, chắc là trong tương lai gần thôi, bạn sẽ lên Bà Nà không còn vất vả như tôi nữa. Nhưng cũng vì thế mà sẽ không có cảm giác thử sức mình, cảm giác chinh phục đỉnh cao của một tay du lịch Traking. Nên chăng có một lối cắt rừng với những dốc ngược nhất, dựng đứng nhất dành cho những chàng trai muốn chinh phục đỉnh cao 1.500m của khu du lịch Bà Nà?

Cầu Thuận Phước về đêm

Có thể nói như vậy về cầu Thuận Phước, cây cầu dây võng sắp được khánh thành vào ngày 19/7 tới đây. Nếu để mắt nhìn lên bản đồ thành phố Đà Nẵng, ta dễ dàng hình dung cả thành phố có dáng hình như một cái đầu rồng và cả bán đảo Sơn Trà như một viên ngọc quí được ngậm trong miệng của cái đầu rồng đó. Sơn Trà vẫn được coi là lá phổi xanh của thành phố, là một khu rừng cấm quốc gia với nhiều quần thể động thực vật quí hiếm. Một vùng cảnh quan hùng vĩ, vừa núi rừng, vừa biển cả luôn là niềm mơ ước cho bất cứ nhà đầu tư du lịch nào có đầu óc thực tế.
Cầu Thuận Phước là công trình trọng điểm của thành phố Đà Nẵng, đã được xây dựng bắc qua sông Hàn, nối liền quận Hải Châu với bán đảo Sơn Trà. Sau khi cây cầu hoàn thành, người Đà Nẵng hoàn toàn có thể tự hào về cầu treo dây võng dài nhất Việt Nam (dài 1.850m, hơn cầu Mỹ Thuận 300m), được thiết kế với quy mô khẩu độ lớn, hiện đại, mang tính thẩm mỹ cao. Cầu có 2 trụ tháp cao 92m, cách nhau 405m, tĩnh thông thuyền 27,5 m, kết cấu với dầm hộp thép suốt toàn bộ nhịp treo dài 650m, chế tạo bằng công nghệ dầm tăng cứng theo tiêu chuẩn quốc tế. Nhưng hơn cả, người dân Đà Nẵng đặt nhiều kỳ vọng vào cây cầu Thuận Phước bởi biết rõ muốn đánh thức được “giấc ngủ của nàng tiên Sơn Trà” phải dùng đến 'chiếc chìa khóa vàng' là chiếc cầu này. Chính vì vậy, sự dõi mắt ngày đêm cho từng diễn biến của việc xây dựng cầu Thuận Phước, sự mong mỏi đến ngày cây cầu hoàn thành là tâm lý chung của nhân dân thành phố trong những năm qua.
<

Không mong mỏi sao được khi cả một vùng bãi Bụt, bãi Rạng, bãi Nam… của bán đảo Sơn Trà với tuyến đường Sơn Trà-Điện Ngọc như một dải lụa mềm vắt qua những triền núi xanh mơ màng, đã chuẩn bị tư thế sẵn sàng đón đợi cho những hoạt động du lịch vừa biển, vừa núi vô cùng sinh động, hấp dẫn. Một khu đô thị mới, những khu biệt thự nghỉ dưỡng cao cấp, các khách sạn, các tour du lịch sinh thái, du lịch lặn đã và đang được xây dựng tại khu Bán đảo Sơn Trà…thừa sức để biến nơi này thành một khu vực du lịch sinh thái tầm cỡ quốc tế. Mà đâu chỉ có Sơn Trà, đứng trên cầu Thuận Phước, phóng tầm mắt qua quận Hải Châu là có thể thấy ở góc độ đẹp nhất toàn cảnh khu đô thị quốc tế Đa Phước, tuyến đường Nguyễn Tất Thành, xa hơn là cầu Sông Hàn. Ông Kim Yong Moo - GĐ quản lý dự án Đô thị quốc tế Đa Phước cho biết, ông rất phấn khởi khi công trình này hoàn thành và dự đoán sẽ có nhiều nhà đầu tư sẵn sàng đến Đà Nẵng đầu tư ở các khu vực gần đây. Và như thế cầu Thuận Phước chẳng khác nào một viên nam châm tạo ra một từ trường mạnh để thu hút đầu tư vào Đà Nẵng. Bản thân cây cầu, với qui mô hoành tráng, được đầu tư tập trung kinh phí lớn, công nghệ cao cũng chính là một trong những điểm đến du lịch Đà Nẵng và có thể sẽ trở thành một biểu tượng sáng giá của thành phố đầu biển cuối sông này. Với ý nghĩa là chiếc chìa khóa thì cầu Thuận Phước là sự mở cửa để vào “nhà”, sắp xếp lại “căn nhà” chứ không thể vào để mà làm lộn xộn mọi thứ. Cho nên khi cây cầu hoàn thành, khi các hoạt động du lịch đã khởi động và tăng tốc thì chúng ta không thể không coi trọng đến việc bảo vệ tiềm năng du lịch mà trong đó Rừng Quốc gia Sơn Trà là vấn đề phải được đặt lên hàng đầu. Việc xây dựng các resort, các bãi tắm, các khu biệt thự cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, qui hoạch phát triển đồng bộ, đảm bảo duy trì cảnh quan thiên nhiên, môi trường trong sạch, nhất là các quần thể thiên nhiên. Ngoài việc tổ chức các khu du lịch cao cấp, cần bố trí những khu du lịch, điểm du lịch để thu hút khách nội địa và nhân dân thành phố đến vui chơi thưởng ngoạn. Có như vậy hòn ngọc quí bán đảo Sơn Trà sẽ ngày càng tỏa ra ánh sáng xanh diệu kỳ và xứng đáng là niềm kiêu hãnh của thành phố.


Những ngày này, công trình Cầu Thuận Phước đang đi vào giai đoạn hoàn tất. Toàn bộ công nhân, nhà đầu tư đang miệt mài ngày đêm với các công đoạn nước rút trên công trường. Để rồi đây, khi màn đêm buốn xuống, những ánh đèn từ chiếc Cầu Thuận Phước thắp sáng lung linh soi bóng xuống dòng sông, ánh sáng rực rỡ như thắp sáng thêm niềm tin, niềm hi vọng pha lẫn niềm tự hào của mỗi người dân thành phố.



Mây núi Hà Giang

Nắng trải vàng trên những thửa ruộng vừa gặt, bầu trời cao xanh trong, những đám mây trắng bồng bềnh như ôm lấy dãy núi xanh mờ xa xa. Đất trời Hà Giang vào thu thật đẹp.



big big world

10 hố lớn kỳ lạ nhất thế giới

10 hố lớn kỳ lạ nhất thế giới

Đa phần những chiếc hố khổng lồ hình thành trên trái đất do hoạt động khai thác mỏ của con người tạo ra, trong khi đó thiên nhiên cũng hình thành những hố tương tự.


1. Hố gas Darvaza - Turmenistan
Năm 1971, các nhà địa chất phát hiện mỏ khí ngầm ở vùng Darvaza. Trong khi khai thác, một vụ sập đã tạo ra chiếc hố khổng lồ. Để ngăn tình trạng khí độc giải phóng người đã đốt nó và đến nay hố gas Darvaza vẫn tiếp tục cháy, tạo ra cảnh tượng độc nhất vô nhị trên hành tinh.


2. Mỏ kim cương Kimberly - Nam Phi
Mỏ kim cương này còn được gọi là Big Hole được coi là chiếc hố nhân tạo lớn nhất thế giới. Từ năm 1866 đến năm 1914 đã có 50.000 công nhân làm việc tại đây bằng những dụng cụ thô sơ như cuốc và xẻng, khai thác tổng cộng 2.722 kg kim cương. Công trình này đang được đăng ký trở thành một di sản thế giới.



3. Đập Monticello - California
Con đập nằm ở hạt Napa của bang California (Mỹ) này được biết đến nhiều vì có đập tràn hình tròn khổng lồ.



4. Mỏ Bingham - Utah
Khu mỏ khai thác đồng ở hẻm Bingham thuộc dãy núi Oquirrh, bang Utah (Mỹ) có độ sâu tới 1,2 km và đường kính 4 km. Đây cũng là một trong những hố lớn nhất thế giới do con người tạo ra.

5. Hố xanh khổng lồ - Belize
Hố sụt ngầm dưới nước được mệnh danh là Great Blue Hole này nằm ngoài khơi Belize, thuộc vùng Trung Mỹ, được hình thành như một hang động đá vôi ở cuối thời kỳ băng hà.


Thứ Năm, 5 tháng 11, 2009

Hà Nội vào thu



Hà Nội đang bước vào những ngày thu, trời hơi se lạnh, với mình thì mát vô cùng. Những ngày như thế này giờ không nhiều đâu.

Tiết trời thay đổi, dễ chịu hơn, con người cũng vì thế mà bình yên hơn, có chút gì đó gọi là lãng mạn cũng đúng.

Những ngày như thế này, bạn sẽ rất dễ bắt gặp hình ảnh mọi người đi bộ, thong dong, chậm dãi, dường như cố tận hưởng cái khí trời lành lạnh, hương hoa sữa nhẹ nhàng, rất đặc trưng Hà Nội. Vẫn là cuộc sống gấp gáp thường ngày, vẫn là cảnh tắc xe, là chen lấn, xô đẩy nhưng mọi người dễ dàng bỏ qua cho nhau hơn. Chuyện, Hà Nội đang thu mà.

Hà Nội mùa thu, cốm đã rộ rồi. Ở bất cứ nơi đâu của Hà Nội, trong các chợ, trên những đường phố, cả những ngõ nhỏ bạn cũng bắt gặp những bà, những chị với thúng cốm trên có phủ lá sen, cạnh có túm rơm khô, họ bán rong hay ngồi vỉa hè. Nhưng ngon nhất vẫn phải tìm đến làng Vòng, đặc trưng Hà Nội đấy. Cốm này mà ăn với chuối thì tuyệt. Có nhiều món ăn làm từ cốm lắm đấy.

Nói đến đặc trưng Hà Nội, hay thật, Hà Nội có rất nhiều thứ đặc trưng, nhất là vào mùa thu. Ngoài cốm ra còn là phố cổ, tiêu biểu là hàng Mã. Nếu có điều kiện, bạn hãy đi bộ, vào buổi tối lại càng tuyệt vời, men theo phố hàng Mã, bạn sẽ thấy ngập trời sắc đỏ, của đèn ông sao, đèn kéo quân, rất nhiều loại đèn mà tớ không nhớ tên, rồi đầu lân, các thể loại đồ chơi khác hấp dẫn không chỉ các em nhỏ mà người lớn cũng mê tít, như để tìm về tuổi thơ xa xưa, một thời tuổi thơ từng mơ đến những món đồ "xa xỉ" này.

Nhắc đến trung thu phải kể đến bánh trung thu nữa. Người Hà Nội sành ăn rất ít khi mua các bánh của các hãng bánh kẹo nổi tiếng, ngập tràn phố phường, ở bất kì thành phố nào cũng có. Họ tìm đến các cửa hàng bánh truyền thống, chỉ riêng Hà Nội có mà thôi. Là những cửa hàng trên phố Hàng Đường, là tiệm bánh Bùi Công Trung phố Hàng Bồ... Bánh vẫn được làm theo phương pháp truyền thống, nguyên liệu truyền thống, dù mẫu mã có không đẹp như của các hãng kia.

Thế đấy, Hà Nội mùa thu có những điều thật khác, khác với mùa thu những nơi khác, khác với các mùa khác ở Hà Nội. Sẽ dễ dàng nhận ra lắm đấy.

Hãy bình yên đón nhận thu Hà Nội!

__________________Mùa thu Hà Nội qua các ca khúc

Hà Nội vào thu với những cơn gió giao mùa se lạnh, với chút lảng bảng trong sương trên mặt hồ gợn sóng. Những con đường, góc phố, tháp rùa... tất cả đã đi vào lòng người một cách tự nhiên không ồn ào mà sâu lắng.

Hoa Nắng

Biết bao câu hát, vần thơ về Hà Nội đã để lại trong lòng nguời đọc, người nghe một nỗi niềm buâng khuâng da diết, nhớ lắm Hà Nội ơi!



Hà Nội đã vào thu. Thu Hà Nội đã làm nên biết bao ca khúc bất hủ để hôm nay trên mảnh đất xa lạ, nghe lời hát: "Hà Nội mùa này vắng những cơn mưa..." bỗng thấy lòng chùng xuống một nỗi niềm vu vơ.

Hà Nội mùa này... vắng những cơn mưa.
Cái rét đầu đông khăn em bay hiu hiu gió lạnh.
Hoa sữa thôi rơi, em bên tôi một chiều tan lớp.
Đường Cổ Ngư xưa chầm chậm bước ta về.

Hà Nội ơi, Hà Nội mùa thu thật lạ! Nó như một thứ bùa mê khiến cho những người con đi xa cứ ngóng trông, da diết khôn nguôi. Từng góc phố, quán cóc nhỏ đã đi vào tâm khảm người Hà Nội một điều gì đó đau đáu nơi quê nhà.

Hồ Tây mùa này có còn không cây lộc vừng đứng đợi để ngày sau ta níu bóng quay về, vẫn hẹn ngày trở về với Hà Nội, với mùa thu

Có phải em là mùa thu Hà Nội
Nghìn năm sau ta níu bóng quay về

Đây những con phố dài, đường Cổ Ngư, bàn chân ai đưa đón, những đêm hẹn hò hơi ấm mãi còn vương... Khi nhắc đến Hà Nội, ta không thể không kể đến những con đường rợp hoa sữa nồng nàn. Bất chợt đâu đâu câu hát cứ ngân dài "em ơi Hà Nội phố".

Em ơi, Hà Nội phố
Ta còn em mùi hoàng lan
Ta còn em mùi hoa Sữa
Con đường vắng rì rào cơn mưa nhỏ
Ai đó chờ ai tóc xõa vai mềm

Mùa thu lạ lắm, mà mùa thu Hà Nội càng lạ lùng hơn, bởi những chiều hoàng hôn buông, những tia nắng cuối ngày như nét vẽ trên gác chuông nhà thờ phố cổ, cũng là lúc bước chân ta tìm về hối hả phố ngược xuôi dòng người trong cái lạnh se sẽ của những cơn mưa giăng không đủ ướt áo mà ướt lạnh trái tim mình... xa nhau đếm lá đợi mùa của biết bao đôi tình nhân trên góc phố. Mùi ngô nướng thơm lừng quyện trong gió cùng tiếng cười khúc khích bên bếp lửa hồng nơi cuối phố... nụ hôn còn ngọt mãi hương thu.

Mùa thu, cốm đầu mùa dịu ngọt.
Trên cao, hoa sữa hương ngạt ngào.
Hồ Tây chiều hôm nay, nỗi nhớ ai những tháng ngày xưa ấy.
Mưa ngâu rơi, rơi trên mặt hồ.
Gió heo may tím ngát mong chờ.
Tà áo trắng,tóc em bay trong chiều mùa thu.

Để thương lắm đôi vai gầy khi trở gió, em và anh giữa hai đầu nỗi nhớ cùng nhặt lá vàng thu để thì thầm hỏi gió, người có buồn không thu?

Một chiều sương giăng
Bỡ ngỡ em nhìn
Hà Nội ta mùa thu không nỡ
Lá rụng bên đường người có bơ vơ

Hà Nội vào thu rồi anh có biết không anh? Chiều nay mặt trời đi ngủ sớm, hoàng hôn buông sợi nhớ giữa mặt hồ xanh dịu vợi, lăn tăn con sóng nào soi bóng bên nhau để giờ đây, Hà Nội và em khe khẽ tiếng thở dài mong nhớ. Hoa lộc vừng khoe sắc ven hồ như gợi nhớ, như thầm thì gỡi nỗi nhớ đi xa.

Mênh mông hồ sương thu tan trong gió
Bát ngát trăng ngân một khoảng trời
Một khoảng trời, khoảng tình lắng sâu bao trong đục vơi đầy
Đây Dâm đàn, đây Lãng bạc, ngàn thu qua bao lần sóng gió
Tây Hồ, Tây Hồ, Tây Hồ, Tây Hồ

Có nỗi nhớ cứ len nhẹ nhàng trong tim mỗi người khi mỗi độ thu về, phải chăng đó chính là nỗi nhớ về mùa thu Hà Nội. Nỗi nhớ gọi tên ai gói trong sắc vàng da diết xào xạc dưới chân mình ... để rồi thầm nhắc "Hà Nội ơi một trái tim hồng".

Hà Nội gió trở mùa, nơi ấy có lạnh không em? Mưa có vô tình đọng rèm mi những hạt nhỏ li ti như những giọt sương mai để mắt ai ngắm nhìn mãi không thôi, em thẹn thùng vờ nhặt cánh hoa rơi. Chiều trên phố em có thầm hát không "Hà Nội ngày chia xa" để rưng rưng nỗi nhớ tràn về trong cơ gió heo may.

Em! em hãy hát lên khúc hát ngày trở lại, để nỗi nhớ chẳng còn chênh chao, anh sẽ về trong vòng tay ấm áp yêu thương.

Ôi nỗi nhớ muôn đời vẫn thế
Như giòng sông Hồng cuộn đỏ mãi trong tôi
Voi va trở về vội vã ra đi
Chẳng thể nào qua hết từng con phố
Nhưng còn đó mua thu, mùa thu đầy gió
Và rêu phong bên những gốc cây già
Vội vã trở về cùng tháng năm xưa

Quê hương với bốn mùa thay đổi sao lòng ta cứ vương vấn bởi mùa thu? Có lẽ mùa thu với chút se lạnh, chút vu vơ buồn mang mác trong từng chiếc lá rơi, từng hạt mưa thu đã làm nên những cảm xúc trong thi ca để mỗi lần bất chợt đâu đây thoảng câu hát ngân dài trên phố lại đưa ta về với những kỷ niệm thân quen cùng những dấu yêu thuở nào. Để một lần thôi nghe em hát, lại ước ao mình được trở về, được đến với Hà Nội, với mùa thu nơi ấy, để một lần thôi đuợc ngắm nhìn mặt hồ Gươm gợn sóng, được đắm chìm trong cái lảng bảng của mùa thu Hà Nội, lòng thầm hỏi em ơi có về cùng thu!

Cứ thế những ca khúc như gọi mời, như níu kéo bàn chân ta trở về với Hà Nội để thấy Hà Nội hôm nay và mai sau mãi mãi là một trái tim hồng trong lòng mỗi người Hà Nội khi mỗi độ thu về.

Trung tâm hội nghị Quốc gia

Vốn đầu tư trên 4.300 tỷ đồng, đây là công trình đa năng, có diện tích sàn 60.000m²cần dẫn nguồn. Tòa nhà chính là khối nhà 5 tầng, cao trên 50m. Phòng họp chính tại tầng 2 tòa nhà với diện tích 4.256 m² có sức chứa 3.800 chỗ ngồi.




nhà quốc hội Việt Nam








mùa đông yêu thương